CLOSE
Add to Favotite List
EBOOKS » Simone de Beauvoir » Tuổi Già





Simone de Beauvoir





Tuổi Già





 





Chương 15

BETH

Tháng Mười, 1990

Không thể nào.

Lần đầu tiên cô đi vào hiệu đóng sách vô chủ mà sau này là nhà hàng Đám Cưới Trong Khu Phố Cổ, Beth đã nghĩ Đây là một cái hố, một cái hầm, tối tăm mù mịt trông gớm guốc khiến những người lạc quan nhất cũng muốn tự tử. Pat và ông Angelo đang chọn cách tự sát tập thể để thoát khỏi thực tế của một gia đình ngày càng thu nhỏ lại vì mất cha, mất con. Đó chỉ là một ngôi nhà thô sơ vô dụng với mấy bức tường bằng thiếc bị viết vẽ đầy trên đó nằm giữa vùng biên giới lộn xộn phía tây, một vùng trong đó chỉ có vài người vui vẻ, gan dạ bắt đầu dấn vốn trên một đống gạch nâu đổ nát.

Một trong những người đó là nhà trang trí sân khấu Beth đã gặp cách đây vài tháng – một người trang trí sân khấu nổi tiếng cấp quốc gia đã thiết kế theo chủ đề cho các quán rượu và nhà hàng.

Ông ta thực sự “tạo nên” những ảo giác, giống David Copperfield à? Beth đã muốn hỏi. Cô đã nén mọi lời bình phẩm; từ ngày Pat bị nhồi máu cơ tim, cô đã nén trong lòng quá nhiều điều đến nỗi một ngày nào đó chúng có thể sẽ trỗi dậy làm cô nghẹt thở. Tuy nhiên, sự biến đổi này cần phải nhờ đến phép lạ.

Và không có từ nào khác. Phép lạ. Trong sáu tuần lễ.

Beth chưa từng thấy điều gì giống như những gì đã xảy đến cho cái kho hàng cũ kỹ đó. Giống như một chuyến đi mơ ước trong trí tưởng tượng của người Ý. Hết phòng này đến phòng khác – có một phòng được làm giống như một hầm rượu, với những thùng tô-nô chất từ sàn lên trần, trên dán nhãn các nhà sản xuất rượu “Ruffino,” “Conterno,” “Catello di Amma” và những giọt sơn nhỏ khéo léo làm thành những giọt rượu tràn dọc theo tường. Các hoa văn tinh tế bằng thạch cao được gắn nơi các hốc tường với những câu khẩu hiệu màu xám tro và xanh da trời. Bàn trong phòng đều bằng gỗ bách xù xì thô nhám, bên trên trải khăn san, ghế ngồi là những thùng rượu. Trong một góc phòng là một quầy rượu tao nhã gần như khuất hẳn và một lối vào bếp. Pat giải thích phòng đó sẽ mở cửa để khách ăn trưa và dành cho ba đêm đám cưới đầy khách mỗi tuần.

Rồi Pat đưa Beth sang quầy rượu trang trọng, lịch sự hơn, nơi một mô hình đài phun nước Trevi bằng gốm được phủ một lớp cẩm thạch cao hơn một mét rưỡi choán hết chiều dài một bức tường. Mỗi phòng nhỏ trong quầy rượu được làm giống như một ban-công có mắt cáo hoa hồng; mỗi phòng chứa được sáu người. Đằng sau quầy là những súc vải xatanh màu hồng và xám nhạt được xếp nếp rồi kết lại với hoa hồng bằng lụa. Những cánh hoa thật – ông Angelo đã mua từ ông bạn Armando của mình, một người quản lý lễ tang – sẽ được rải trên sàn để thành một thảm hoa vào mỗi đêm.

Nhưng phòng tiệc cưới mới là thành công thật sự. Những thanh rầm bằng gỗ thông bóng loáng uốn thành vòm làm trần nhà giống nhà thờ chính tòa ở Florence, và bức vẽ bao phủ hết trần nhà (một họa sĩ đang ở trên đó, ngửa người trên một giàn giáo được treo đong đưa, giống hệt Michelangelo vậy), với chủ đề muôn đời – hôn nhân, xét cho cùng thì đó chẳng phải là sự khởi đầu của sinh sôi và gặt hái đó sao?

- Mấy cái kia để làm gì thế?” Beth vừa hỏi vừa chỉ sáu bao lơn bằng sắt đen được gắn vào các góc của những thanh rầm.

- Dành cho mọi người,” Pat giơ hai tay lên trời khi Beth nhìn anh. “Đừng hỏi anh. Ý của bố đó, rằng phải có các nữ thần hay gì gì ở trong đó. Anh thật sự muốn em thấy cái này.” Anh sải bước tới một bức tường rồi kéo tấm vải dầu để che ra. Beth nhảy dựng lên. Cô đang nhìn vào gương mặt của chính mình.

- Em là Mimì,” Pat vui mừng nói, gương mặt anh ánh lên vẻ mừng rỡ cô chưa từng thấy từ khi anh chơi cho liên đoàn bóng chày Colt. “Còn anh là Rodolfo.” Anh từ từ đưa cô đi xem hết mấy bức bích họa còn lại – một vài bức vẫn đang dở dang. Ngoài La Bohème, còn có những cảnh miêu tả Carmen, Madame Butterfly, và còn nhiều nữa, mỗi nhân vật là một khuôn mặt của một người trong gia đình Cappadora. Kỹ thuật sơn mờ làm không chỉ những bức tranh trong các vở nhạc kịch mà những bức tường trông cũng cổ như đã hàng trăm năm tuổi rồi.

- Làm sao ông ta làm được từng ấy thứ trong một thời gian ngắn đến thế? Công việc nhiều như vậy cần đến hàng bao nhiêu năm ấy chứ. Ôi, Paddy ơi, lộng lẫy quá!”

Mặt Pat ngời sáng. “Tuyệt vời em nhỉ? Chúng ta đã rất đúng khi chọn Kip. Chỗ này sẽ làm mọi người sửng sốt.... Và hãy chờ cho đến khi em thấy mấy cô dâu và bục dàn nhạc và cái này – cái này nữa, Beth...” Anh kéo một góc miếng nhựa che sàn nhà. Beth há hốc miệng kinh ngạc. Toàn bộ sàn nhà được lót bằng gỗ theo lối khảm mosaic, màu hơi tím đỏ viền quanh gương mặt nhìn nghiêng của một phụ nữ rộng chừng bảy mét. Trán và vương miện của bà ta, trên gò má màu ô-liu, được trang trí bằng vải xếp nếp tạo ra nhiều chỗ mờ khác nhau từ vàng nhạt đến vàng đậm của màu gỗ sồi, lượn sóng rất đẹp đến mức tưởng như những nếp gấp đó đang thực sự chuyển động.

- Ôi, Pat, cái mũ trùm đầu bằng vàng.”

- Đầu tiên chúng ta sẽ để mấy cái bàn ở chỗ này. Rồi sau đó, khi bắt đầu khiêu vũ thì, để xem nào, mấy cái bàn sẽ được lăn về phía sau... vào hốc tường ở đây này. Khi Kip bắt đầu khảm hình vào thì anh nghĩ là quá rườm rà lòe loẹt, như trò hề vậy.”

- Không, đẹp lắm anh ạ. Đẹp lắm. Nhưng anh để mọi người đi lại trên đó à?”

- Không sao đâu em,” Pat hồ hởi đáp. “Bố đã nhờ một tay làm sàn phòng thể dục tráng một lớp polyurethan lên rồi và ta có thể lái cả cái xe Zamboni to đùng trên đó cũng được nữa.”

- Mọi thứ sẽ xong vào ngày khai trương chứ?”

- Còn tùy ở bố nữa,” Pat ấn ngón tay trên cái bàn có phủ tấm trải bằng nhựa gần cửa ra vào nơi ông Angelo đang ngồi thảo luận sôi nổi với nhà thiết kế. “Họ không nhất trí với nhau về phòng giải lao. Đối với bố phòng đó quan trọng lắm.” Với cái quần soọc được cắt ngắn từ quần dài và cái mũ bóng chày, Beth thấy Pat như chỉ mới hai mươi. Trông anh không phải là trẻ lại mà là được hồi sinh như thể cuộc đời anh chỉ có một mục tiêu hết sức rõ ràng này để anh thận trọng dồn toàn bộ năng lực và sáng tạo vào đó. Ý tưởng cho Đám Cưới Trong Khu Phố Cổ đã hình thành trong đêm tổ chức đám cưới Jill, vào chính cái đêm khuya đó sau khi hầu hết mọi quan khách đã rời phòng tiệc cưới của nhà hàng Cappadora ở Madison.

Đám cưới Jill được tổ chức chỉ vài tháng sau khi Beth đã quay lại làm việc. Làm việc trở lại đã ngốn rất nhiều thời gian của Beth đến nỗi cô không thể đương đầu được với việc Jill dọn đi. Jill biết những việc Beth không biết, như tên các thầy cô của Vincent và bố mẹ các bạn nó; chính Jill là người giúp đỡ Beth để cô có thể làm những việc nhỏ nhặt cho hai đứa nhỏ trong khi vẫn có thời gian mày mò trong sự tĩnh mịch của cái phòng tối của mình, làm việc để hoàn tất những thứ trước đây cô có thể làm mà không cần phải bỏ ra nhiều công sức.

Thật ra thì cả nhà đã năn nỉ Jill hoãn việc kết hôn với Mumit, một anh chàng da đen bóng màu gỗ gụ người Bangladesh mà cô chỉ mới gặp bốn tháng trước đó. Cô còn quá trẻ; và họ thì quá nghèo. Jill bỏ ngoài tai tất cả những lời năn nỉ ấy; và đêm đó, tại nhà hàng Cappadora, thật sự rạng rỡ, cô đã cùng với chú rể chào mọi người để đi hưởng tuần trăng mật ngắn tại quận Door trước khi Mumit hoàn thành đề tài nghiên cứu hóa học.

Một lát sau Tree nói: “Phải công nhận là họ hạnh phúc. Quả thật là một đám cưới đẹp. Mọi người không ước được dự một đám cưới như thế này mỗi tuần à? Dự buổi khiêu vũ và ngắm những tác phẩm điêu khắc bằng băng này à? Được ngắm xiêm áo xênh xang nữa? Em ước gì có thể kết hôn bốn lần như thế.” Cô nhìn sang Joey. “Dĩ nhiên là với cùng một người.”

Đó cũng chính là lúc ông Angelo bắt đầu nguệch ngoạc trên mấy khăn ăn còn thừa, viết tên cặp vợ chồng mới cưới xuống bằng cây bút màu lá vàng óng ánh. Đã nhiều năm rồi ông thường nói với Pat rằng ông phát chán với những hối hả tất bật ở nhà hàng Golden Hat Gourmet. Ông muốn được điều khiển một nơi trong những năm cuối đời – được làm việc bên cạnh con trai mình và con rể trong một đơn vị của một nhà hàng. Những nhà hàng theo chủ đề – một phần là nhà hàng, phần kia là sân khấu – đang nở rộ khắp Chicago; cá và các nàng tiên cá bơi lội tung tăng trong các hồ lớn xây trong tường; những nhà hàng chuyên bán sườn nướng trong các trạm xăng cũ, bánh mì tỏi bày trên các khay làm từ những mâm bánh xe hơi.

Tại sao lại không là một đám cưới phong cách Ý chứ? – ông đã hỏi Pat, rồi hỏi Joey. Tại sao không là một đám cưới Ý, có thể ba hay bốn đêm một tuần, với cô dâu và chú rể làm chủ buổi tiệc? “Với phong cách gia đình ở mỗi bàn, nui Mostacioli và thịt viên chiên, những ổ bánh mì lớn – ta sẽ tiết kiệm được hàng tấn lớp giấy bạc để bọc thức ăn,” Joey hồ hởi thêm vào.

- Và một ban nhạc nữa – mình sẽ có một ban nhạc và một sàn nhảy!” Pat hét lên. “Cô dâu và chú rể, chúng ta có thể thuê mấy đứa nhóc đang cố len lỏi gia nhập vào lãnh vực kinh doanh giải trí như mấy đứa làm việc cho Steppenwolf hay Second City, những đứa đẹp thật sự. Và chúng sẽ nhảy mở đầu cho buổi tiệc...”

- Bellissimo! Tuyệt!” Ông Angelo kêu lên. “Cứ tưởng tượng mà xem!”

- Không thực hiện được đâu,” ông trẻ Augie càu nhàu. “Tốn kém quá. Mình sẽ làm gì nếu cô dâu bị rách áo vào đêm đầu tiên?”

- Mình có thể giải quyết được mà,” Pat cãi lại. “Mình sẽ liên hệ với những nơi cho thuê áo cưới. Như thế là mình quảng cáo không công cho họ rồi. Những thứ dầu sao chăng nữa cũng sẽ trở nên lỗi thời. Ai mà để ý đến kiểu dáng chứ? Không chừng hơi cổ điển mà họ lại thích hơn. Bố! Chúng ta cũng có thể mua toàn bộ những bộ váy cho phù dâu chúng ta thấy quảng cáo trên báo với giá rẻ. Toàn bộ nhân viên phục vụ có thể là phù dâu và là người dẫn chỗ luôn...”

Khi Beth, mệt rã rời, đưa Vincent và Kerry về nhà lúc hai giờ sáng thì mấy người đàn ông và Tree vẫn còn đang thảo luận, họ đập bàn đập ghế rầm rầm, uống cà phê và rót rượu anít liên tục. Ngồi trong xe, bà Rosie nói: “Thật không có cái ngu nào giống cái ngu nào.” Nhưng bà đang mỉm cười.

Tuy nhiên, trong thâm tâm, Beth vẫn không tin cuộc chiến dọn về lại Chicago có thể thành hiện thực được. Và khi đã về lại rồi cô vẫn không tin cuộc chiến đó sẽ kết thúc tốt đẹp. Theo cô biết, Pat cho là họ đã may mắn thiết lập được một môi trường mỏng manh ở Madison. Những cuộc săn lùng của giới báo chí đã lắng xuống; Beth đang kiếm được tiền nhờ chụp ảnh chân dung và chỉnh sửa ảnh. Cô thấy hình như hai đứa nhỏ mạnh khỏe: Kerry biết nói và biết đi đúng theo lứa tuổi; từ ánh đèn hắt ra phía dưới cửa vào đêm khuya, Beth thấy Vincent đã biết tự đọc sách chữ có nhiều chương. Cô và Pat có một cuộc sống có vẻ rất tốt đẹp, thỉnh thoảng lại đi ăn tối với với Rob và Annie Maltese, và cứ hai tháng một lần cô lại cùng Laurie đi dự những buổi họp mặt của nhóm Vòng Tròn Trắc Ẩn.

Beth vẫn ngấm ngầm chống đối. Pat không thể thuyết phục được cô về lại Chicago cũng giống như không thể nào dụ cô nhảy ngực trần trong sảnh lớn của tòa Quốc hội Mỹ được. Muốn cô về lại đó chỉ còn cách là bước qua xác cô thôi.

Cô đã không tiên đoán được chuyện khước từ những đòi hỏi của Pat.

Cô cũng không tiên đoán được những gì xảy ra vào dịp cuối tuần hôm đám cưới Candy. Dịp cuối tuần cô ăn trưa với Ellen và Nick. Dịp cuối tuần mà chiếc giày đỏ thứ hai xuất hiện tại buổi họp lớp lần thứ hai mươi. Dịp cuối tuần hôm Pat bị nhồi máu cơ tim. Dịp cuối tuần Beth phạm tội.

Khi nghĩ lại, Beth thấy rằng mọi chuyện đã thật sự được an bài, trong vài giây khi Candy gọi cho cô báo rằng đồng hồ sinh học của cô ấy đã điểm, và Candy cùng anh bạn cũ Chris đã chọn ngày thứ bảy đầu tiên trong lịch chung của cả hai người. Sau đó sẽ có một bữa tiệc thật lớn, thật vui nhộn và họ muốn có những bức ảnh thật đẹp. Candy hú lên Em có tưởng tượng nổi chị sẽ là cô dâu vào tháng Sáu này không? Và Beth cũng rất ngạc nhiên khi thấy mình trêu Candy thật khí thế, cô hỏi xem cô ấy và Chris đã làm gì nhau trên giường chưa, và lần đó có dữ dội không? Candy cười toáng lên đáp Chưa và kể cô ấy chỉ mới nhắm mắt lại tưởng tượng anh ấy là Jessica Lange mà thôi!

Beth đi lướt qua những đống gỗ xanh còn thơm mùi gỗ mới xẻ và những thanh gỗ mỏng màu trắng sẽ được ghép thành bàn ăn trong nhà hàng sắp-được-hoàn-thành. So với những chuyện đã xảy ra vào cuối tuần của buổi tiệc cưới của Candy thì chuyện dọn nhà chỉ là chuyện nhỏ. Thật vậy, chẳng mùi mẽ gì.

Ngay cả căn nhà mà Tree đã chọn cho họ (Beth thậm chí đã từ chối không đi xem nhà) cũng không đến nỗi tệ, dù chỉ cách khách sạn Tremont năm phút đi bộ, nằm ngay giữa khu nhà họ đã từng lớn lên cùng nhau. Thậm chí lũ trẻ cũng ngoan hơn Beth tưởng tượng. Sau khi Pat loan báo “tin tốt lành,” Vincent đã biến mất suốt ba tiếng đồng hồ. Trước đó Pat rất sợ, nhưng Beth lại rất bình tĩnh. Cô nghĩ sẽ không có gì nghiêm trọng xảy ra với Vincent đâu, một đứa không biết sợ là gì. Có lần nó ném một trái banh bowling vọt ra qua ngoài cửa sổ và đã lên mái nhà trốn mãi cho đến khi Beth bắt nó phải xuống đi ngủ; nó cũng đã bắn pháo bông trong một căn nhà đang còn xây dựng dở dang, và ngày càng đánh nhau nhiều hơn ở trường. Tuy nhiên, Beth nghĩ, nếu những việc này đừng phát triển thêm nữa thì Vincent cũng ổn rồi. Có thể việc ở gần ông Angelo sẽ thuần hóa nó thêm. Joey cũng đã là một đứa trẻ nghịch ngợm khi đến làm cho nhà hàng Golden Hat đó thôi; và ông Angelo đã biến cậu ta thành một đứa trẻ ngoan kia mà.

Để mặc cánh đàn ông thảo luận tiếp về cái phòng giải lao, Beth đi ra ngoài ngồi nơi bậc cấp được trang trí công phu đã khiến Pat bị mê hoặc khi vừa thấy nó lần đầu. Bên ngoài, bức tường loang lổ đã được trát vữa màu kem; một cái khung sắt và một bảng hiệu sẽ được dựng lên trong nay mai. Cô ngắm một đám con gái da đen đang chơi nhảy dây đôi trên một đống kính vỡ trong bãi đậu xe bên kia đường.

Ngửa mặt nhìn lên ánh nắng mờ sương, cô hồi tưởng lại cách đây năm tháng – chỉ mới năm tháng thôi – dịp đám cưới Candy, dịp cuối tuần đã làm Beth nguyện sẽ trở lại sống suốt đời ở Chicago.

Chỉ nửa tiếng sau khi Beth đến, Ellen đã đề nghị đi ăn trưa. Chồng cô và Nick Palladino đang cùng phục chế một trường cao đẳng cũ dành cho nữ ở khu Hyde Park, biến nó thành một khu trung tâm thương mại và chăm sóc sắc đẹp; khi Beth đến, Ellen đang huyên thiên nói chuyện với Nick qua điện thoại.

- Có ba người khách ở đây này,” cô uốn lưỡi nói. Và rồi Beth bỗng thấy mình đang nói chuyện với Nick, hỏi thăm mấy đứa con của anh, cười ngặt nghẽo về chuyện Nick tình cờ gặp Wayne trong một sòng bạc trên một chuyến tàu ở Indiana. Ellen xen vào đề nghị họ nói chuyện trực tiếp với nhau; họ có thể ăn trưa cùng nhau và sau đó đưa Beth đi xem trường cao đẳng ấy. Phần nội thất tuyệt đẹp: Nick đang cho thợ lát đá cẩm thạch. Beth đồng ý lên kế hoạch làm tờ giới thiệu cho khu đó.

Tại sao lại không nhỉ? Chưa đến giờ Beth phải có mặt ở buổi tiệc cưới tại tầng trên cùng của Trung tâm Thương mại South Shore lúc tám giờ tối mà, và cô cũng đã đi Chicago quá sớm – vì sợ mình không đọc được các bảng chỉ đường và không nhớ cách trả tiền thuế cầu đường – cho nên cô đã đến nơi trước mười giờ sáng.

Ellen nói: “Chiều nay mình đi chơi đi, cậu vẫn còn thừa thì giờ cho buổi tiệc mà. Cậu có thể thay quần áo trong căn nhà di động của Dan. Thôi nào, đi cho vui, Bethie. Sẽ vui lắm đó. Mình sẽ ghé Isabella trên phố Drive.” Beth đồng ý. Cô điên mất rồi.

Nhưng khi cô và Ellen ngừng xe trước bảng hiệu kín đáo của quán cà phê, Beth thấy tảng tuyết lở trong cô trượt nghiêng rồi giáng một đòn mạnh vào cô, nghe cả tiếng rít của nó nữa. “Ôi, Ellen, nó nằm trong khách sạn,” cô nói nhỏ với Ellen. Ellen cũng hoảng thật sự.

- Tớ không nghĩ là... Ôi, Bethie, tớ đã không nghĩ đến chuyện này! Cậu chưa từng vào khách sạn nào từ ngày đó à?”

- Chưa,” Beth hít một hơi thật dài.

- Thậm chí khi đi New York cũng thế?”

- Tớ chỉ ở những quán trọ nhỏ thôi,” Beth như nhấn từng chữ. “Luôn luôn thế.”

- Vậy thì mình đi thôi,” Ellen khởi động máy. “Tớ nghĩ nếu nó không ở gần nơi họp lớp thì...”

- Họp lớp?”

- À, buổi họp mặt lần thứ hai mươi. Cuối tuần này. Tụi nó không gửi thư cho cậu.... Ôi, tớ nghĩ là tụi nó không dám đâu.”

- Cuối tuần này à?”

- Ờ, nhưng Beth này, có gì quan trọng đâu. Tớ sẽ không đi. Wayne cũng thế, không ai đi đâu. Chỉ tình cờ trùng vào cuối tuần này thôi.”

- Ở đâu chứ?”

- Ở Elmbrook.”

Beth lấy tay che miệng. Ellen nói: “Chúa ơi, Bethie. Quên chuyện này đi. Để tớ chạy vào xem có Nick trong đó không, tớ sẽ mua ít thức ăn rồi mình ra công viên ngồi. Được chứ?”

Nhưng ngay lúc ấy Nick xuất hiện nơi góc cái khách sạn cũ kỹ, khi thấy mái tóc đen quăn húi cao giờ đã điểm bạc và bộ đồ diêm dúa làm anh giống như một tài tử trên báo thì Beth không còn căng thẳng nữa.

- Ôi, lạy Chúa,” cô nói với Ellen. “Nhìn anh ấy kìa.”

- Anh ấy không già đi chút nào,” Ellen đồng tình nói.

- Chết... chết tiệt thật,” Beth bỗng chạy ào ra khỏi xe lao vào vòng tay đang dang rộng chào đón của Nick rồi hôn thật lâu lên môi anh, đôi môi thơm mùi hoa đinh hương.

Nếu lúc đó cô biết thì.... Khi hồi tưởng về lúc ấy, tất cả dường như chỉ là một loạt những bước chuyển động rất tỉ mỉ dẫn đến một ngõ cụt, một vòng tròn không lối thoát.

Beth dựa đầu vào gờ bức tường đá thả hồn về ngày ấy. Bất cứ lúc nào chỉ có một mình cô cũng đều hồi tưởng lại chính xác những gì đã xảy ra. Mỗi lần nhớ, cô đều căm ghét bản thân mình; nhưng mấy tháng nay, từ cái ngày tội lỗi, đã hàng trăm lần cô tua đi tua lại trong đầu cái buổi chiều và tối hôm ấy, cho đến lúc có tiếng gõ cửa, chính xác như phim.

Ba người chia nhau uống một chai vang trong bữa ăn trưa – Ellen chỉ uống một ly vì còn phải lái xe. Họ nói về... những chuyện ngớ ngẩn. Về cái đêm tất cả bọn họ chất đống lên chiếc xe Electra cũ kỹ của bố Nick rồi rón rén trèo qua cổng tu viện, rồi về chuyện các linh mục đã thả chó Đức Doberman ra để rượt bọn họ làm rách cái áo khoác bằng da của Wayne. Về cái lần một gã đểu nào đó của câu lạc bộ chiếu phim đã kéo lộn màn trong một chương trình tạp kỹ làm lộ ra Cecil Lockhart ở trong đang thay quần áo, cô ấy chỉ mặc độc mỗi cái nịt ngực và đôi vớ quần vậy mà Cecil vẫn tỉnh táo đứng lấy thế để chụp ảnh trong khi khán giả đờ người ra vì kinh ngạc và ngưỡng mộ. Về chuyện đã phải lén mang Beth về trong một đêm hè để dự đám cưới của Cherry và Tony khi cô đang làm cố vấn trại ở hồ Geneva. Cherry lúc ấy mười bảy tuổi và đang mang bầu, còn ông Bill và bà Evie đã cấm không cho Beth đến dự đám cưới.

Cô cũng nhớ khi ấy cái máy nhắn tin của Ellen bỗng réo vang, Ellen cằn nhằn rằng Dan muốn cô chạy đến một văn phòng của một tay lắp kính phải gió nào đấy cách đó vài cây số, phải dựng đầu hắn dậy đi đến địa điểm xây dựng; kính đã được cắt xong còn người thợ mộc đang đi sinh con. Liệu Nick có thể đưa Beth đến chỗ đó sau khi ăn xong? Chắc chắn là được rồi. Sau đó Nick và Ellen đi ra xe chuyển túi đựng máy ảnh và túi đồ dùng của Beth sang xe Nick để phòng trường hợp Ellen bị kẹt xe, trong khi đó Beth ngồi trên chiếc ghế da màu đỏ ở quầy rượu uống thêm một chai vang Pinot thứ hai và tự hỏi liệu cô có thể nheo một mắt chụp hình cưới cho Candy trong tình trạng gật gà gật gù này được không.

Khi Nick mở cửa vào lại quầy rượu tối, Beth thấy một quầng sáng tỏa quanh đầu anh. Anh không ngồi đối diện Beth mà ngồi xuống cạnh cô. Họ chuyển dần sang những chuyện mơ mơ hồ hồ, về những buổi đi chơi đêm dù bên ngoài trời vẫn đang nắng gay gắt. Họ nói về cây cầu có mái che ở quận Lake, nơi họ đã nằm suốt đêm hè trong chiếc ô tô mui trần của Beth, lúc ấy Nick chỉ mặc độc mỗi cái áo sơ mi Ban-Lon màu hồng tuyệt đẹp, cái màu sẽ làm cho bất cứ gã đàn ông nào khác trông rất nữ tính, nhưng lại làm tăng làn da nâu rám nắng của anh. Beth mặc soọc và một áo dây; cô hối thúc anh làm chuyện đó, Nick ngửa người ra giữ cho cặp hông màu đồng của anh cao phía trên người cô, rồi anh nhào tới trước để cô ôm lấy anh, anh ngậm chặt bầu vú cô, rồi ngừng lại nói Không, mình không thể làm thế này được, tụi anh sắp lấy nhau rồi, không được. Tiếng không đó, toàn bộ những lời đồn đãi, thậm chí về Lisa Rizzo, là không thật; anh ấy chưa từng làm chuyện đó. Anh ấy chỉ yêu một mình Beth. Anh ấy chỉ muốn một mình Beth.

Cô còn nhớ Nick đã quàng tay quanh người cô ở cái quán Isabella đó, vẫn không đụng chạm nhiều vào người cô, anh nhắc Beth rằng anh đã nói với cô trong đám cưới của anh là anh tôn thờ Trisha, rằng anh biết ơn Beth và Pat mãi mãi vì đã giới thiệu Trisha cho anh, rằng anh cũng rất vui khi biết cô và Pat cũng sẽ sắp kết hôn, nhưng anh vẫn hối hận, tiếc nuối vì chưa từng được ân ái với cô.

Và rồi – đây là phần Beth căm ghét mình nhất vì cô thích nhớ lại nhất – Nick chồm tới trước thì thầm: “Anh vẫn còn tiếc, Bethie ạ.”

Cô chỉ lẳng lặng đi vào phòng vệ sinh chải lại tóc, nhìn vào gương mặt mình trong cái gương mạ vàng cũ kỹ và thấy mình trong đó như Nick ắt hẳn đã thấy, không phải một Beth gầy gò hốc hác đang nhìn trả lại mình dưới bóng đèn huỳnh quang chói mắt ở Madison mỗi sáng mà là một phụ nữ mảnh mai thanh tú rất khêu gợi, hai vết hõm dưới mắt và đôi gò má nhô cao không làm người đối diện phải xót thương, trái lại trông cô đẹp rất liêu trai, tóc cô như một mảng mây rối thẫm màu, đôi môi mọng gợi tình. Cô biết khi mình trở ra, anh đã sẵn có chìa khóa và sẽ dẫn cô đến thang máy, xuống một hành lang mờ tối có các vết hư hỏng được che bằng lớp thảm len đắt tiền, đến một căn phòng có tên Phòng Tím, nơi tất cả đồ đạc bài trí bên trong đều là đồ cổ, với một giá đựng chậu rửa mặt bằng cẩm thạch. Cô cẩn thận treo quần áo lên đó rồi, hoàn toàn không e dè ngượng ngùng, quay sang Nick. Cô biết không cần phải nói hay hứa hẹn cũng như nghi ngờ. Nick chỉ nói: “Từ từ thôi cưng, Bethie. Không đi đâu mà vội. Mình đã chờ giây phút này từ lâu lắm rồi mà.” Cô chỉ lẳng lặng gật đầu.

Họ nằm trên chiếc khăn phủ giường màu tím hoa cà đến chín mươi phút – Beth đã liếc qua đầu Nick nhìn đồng hồ trên chiếc bàn ở đầu giường – chỉ để chầm chậm ôm ấp, vuốt ve nhau, cho đến khi tứ chi cô run bắn lên không kềm chế được, cho đến khi phía trong đùi cô ướt đến nỗi đùi cô tuột khỏi đùi Nick, lúc ấy cô trèo lên người anh, cho đến khi tiếng rên rỉ trong cổ họng cô đều đặn trở lại, như tiếng máy chạy rì rì đều đều. Cô có nghĩ đến Pat một lần khi Nick luồn vào người cô, không dài bằng của Pat nhưng to hơn, lấp đầy mọi khoảng trống trong cô, như cô vẫn luôn tưởng tượng. Rồi anh bắt đầu thật chậm, thật chậm, anh suỵt cho cô im lặng khi cô điên cuồng nắm lấy anh kéo anh vào sát người mình, trong đầu cô không còn hình ảnh nào khác ngoài bộ ngực nâu bóng áp sát má cô, cơ thể phản bội của cô thấy hân hoan vì cảm nhận mới mẻ tinh khôi này kể từ ngày cô biết đến ái ân, và rồi, khi cô đạt đến cực điểm, cô vừa thở hắt ra thật dài thì cô nghe có tiếng gõ cửa.

Khi nghe tiếng gõ cửa, cô nghĩ Khách sạn đang cháy. Chà, khách sạn bị cháy rồi, chúng mình vẫn còn năm phút. Năm phút là quá đủ, chỉ cần năm phút này thôi cho suốt phần đời còn lại của mình. Tiếng gõ cửa càng thôi thúc hơn. Có người gọi tên cô. Gọi thật lớn. Giọng một phụ nữ không phải của Ellen, giọng này cô quá quen.

Bị vấp khi đứng lên cô mới biết mình vẫn còn say, cô loạng choạng kéo quần jean lên qua đầu gối, lên đến nửa đùi. Cô cài nút áo. Lại có tiếng gọi tên cô. Lại một tiếng gõ cửa khác lớn hơn mấy lần trước.

Phần còn lại thì Beth biết như thể cô đã đọc đâu đó trong một tờ báo. Cô thấy vòng hoa trên tóc Candy khi Candy đứng ngoài cửa trong bộ áo váy bó chẽn màu vàng đậm.

Một cuộc trao đổi thật buồn cười.

Beth nói: “Em nghĩ sắp đến đám cưới chị rồi chứ.”

Candy đáp: “Chị đã đám cưới rồi.” Candy liếc đồng hồ trên tay. “Chị đám cưới được một tiếng đồng hồ rồi.”

Candy không bao giờ hỏi ai đang ở trong phòng với cô lúc ấy. Candy cũng không xin lỗi vì đã gọi cửa mà chỉ giải thích rằng người giúp việc của Ellen đã cho cô ấy biết nơi Ellen và Beth ăn trưa. Nick đã biến vào phòng tắm; Beth đã quay vào phòng chỉ để lấy cái ví tay, bỏ lại cả đồ lót, nhảy lên chiếc xe cảnh sát đậu phía trước, ngồi bên cạnh tài xế là cô dâu tóc vàng với bím tóc kiểu Pháp trong khi ông chủ quán cà phê sửng sốt nhìn theo từ dưới mái hiên nhà. Một lát sau, tại sở cảnh sát Parkside, Ellen mang mấy cái túi của Beth đến, và trong phòng tắm ở tầng một, Beth đã mặc chiếc áo dạ tiệc vào; cái áo sơ mi của cô thấm đẫm mồ hôi, mồ hôi sau trận mây mưa và tiếp đó là mồ hôi hoảng sợ. Trong khoảng mấy tiếng đầu, khi Candy và Calvin Taylor hết ra rồi lại vào để tường thuật cho cô các sự kiện ở khách sạn Hyatt ở Elmbrook, nơi cảnh sát của tiểu bang, cảnh sát của Elmbrook và cảnh sát của Parkside đang thẩm vấn khách mời đến dự cuộc họp lớp lần thứ hai mươi của khóa 1970 trường trung học Immaculata, thì thậm chí Beth cũng chưa nghĩ đến việc gọi điện thoại cho Pat.

Khi Candy gỡ vòng hoa dành dành được kết tỉ mỉ trên đầu ra thì trời bắt đầu tối; trước đó cô đã hỏi Beth xem Pat có đang trên đường đến đó không. Ellen đứng lên định gọi điện cho Pat; nhưng Beth, với mặc cảm phạm tội, đã đuổi theo Ellen, vì thế chính cô là người báo qua điện thoại cho chồng biết rằng khi cửa phòng khiêu vũ mở ra trước bữa tiệc tối thì một chiếc giày tennis nhỏ có hình con vẹt đỏ đã được tìm thấy trên bục dành cho người dẫn chương trình. Rằng chính Barbara Kelliher là người thấy nó trước tiên và sau khi gần như té xỉu đã vừa chạy vừa hét toáng lên báo cho Jimmy. Rằng mới đầu Jimmy và Karl Kelliher cứ tưởng đó là trò đùa bệnh hoạn của ai đó nhưng rồi Jimmy đã đủ tỉnh táo để không cho ai đụng đến, và rồi anh ta đã gọi Candy dù biết chính lúc ấy cô đang cụng chén với chú rể, vì hiểu rằng Candy sẽ không bao giờ tha thứ cho anh nếu đó không phải là một trò đùa. Beth đã nói với chồng rằng ngay khi cô thấy chiếc giày trong cái túi ni lông trong tay Candy thì cô biết chắc đó là giày thật của Ben khi thấy mẫu tự “B” màu xanh lá cây nhỏ xíu được gắn vào dây giày để ngăn không cho mấy ngón tay nhỏ xíu tháo dây ra.

Chính Beth là người kể lại cho Pat và nghe thấy anh trả lời, sau đó chỉ còn nghe anh thở hổn hển gấp gáp và cuối cùng chỉ còn tiếng chiếc điện thoại rơi xuống và cuối cùng là điện thoại bị ngắt. Rốt cuộc Beth cũng liên lạc được với ông trẻ Augie, biết được tình hình của Pat và được Calvin Taylor chở suốt đêm với tốc độ khoảng hơn một trăm năm mươi cây số giờ khi anh ta báo cho cảnh sát tiểu bang biết họ đã lên đến xa lộ liên bang. Cô cũng là người ngồi trực bên giường Pat suốt ba ngày liền và chỉ mơ mơ màng màng thỉnh thoảng nghe thấy Rob tiếp âm các tin nhắn định kỳ từ Chicago. Chiếc giày được làm vào năm 1985 thật. Chiếc giày có dấu vân tay trên đó. Nhưng không biết vì sao chúng đã bị mờ cả. Số cựu học sinh được phỏng vấn ít hơn cách đó năm năm không có chứng cớ phạm tội. Các nhân viên của khách sạn không thấy ai kỳ lạ hay đáng nghi cả.

Báo chí cũng chào thua rồi, Rob nói. Rob đã nghe rằng hình như một cảnh sát tân binh nào đó, cũng như mọi người khác, cho rằng chiếc giày con vẹt đỏ là một mắt xích của vụ bắt cóc. Candy, người đã dập tắt được tin đồn đó, đang nổi giận đùng đùng; chỉ qua một đêm mà gương mặt Ben lại xuất hiện trên mọi tờ báo xuất bản ngày Chủ Nhật trên khắp nước Mỹ. Rob nói từ khi giới báo chí biết Pat đã được đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt ở Wisconsin thì bãi đậu xe của bệnh viện trông giống như cảnh bên ngoài nhà tù khi Gary Gilmore bị hành quyết vậy.

Beth chỉ mong được thấy gương mặt Pat chầm chậm chuyển từ màu xám sang phơn phớt hồng.

Cô chỉ muốn dựa vào giường bệnh và cầu nguyện cho chồng mình, người cô nghĩ là phụ huynh còn sống duy nhất của các con cô, được sống. Cô tuyệt vọng ngồi đó nhớ lại tiếng cười ngớ ngẩn của Pat khi cô báo cho anh biết là không hiểu vì sao, dù đã cố tránh hết sức, cô vẫn có thai lại, là Kerry – nhớ lúc anh hát cái bài buồn nẫu ruột vào buổi sáng khi bé được sinh ra. Nhớ khi anh vẽ một trái tim bằng bút dạ trên bụng cô lúc cô có thai Ben. Nhớ lúc cô ngắm anh chơi liên tục cho Liên đoàn Bóng chày Colt khi họ còn bé, cô ngồi đó liếm láp kem sôcôla với một lũ nhóc mười hai tuổi. Lúc đó Pat lớn hơn và quyến rũ hơn nhiều với cách anh cài thắt lưng trên đôi hông phẳng lì của mình khiến mỗi khi thấy anh cô đều nổi hết da gà. Bây giờ Beth ngồi đó, đau khổ với sự bội phản của mình và với những lời đã hứa với Pat trước mặt Thiên Chúa rằng định mệnh đã gắn kết họ lại với nhau – cô nhớ tất cả trong mấy ngày đầu tiên đó.

Và Pat, Thiên Chúa, và định mệnh đã ập xuống cùng một lúc.

Beth không liên lạc với Nick nữa. Anh liên tục để lại những lời nhắn trong điện thoại nhà của Beth để hỏi về sức khỏe của Pat, và sau đó là về Ben, nhưng cô không trả lời. Cuối cùng cô nhận được một lời nhắn chỉ vỏn vẹn một câu:

- Anh xin lỗi nhưng anh không hối hận chút nào.” Không xưng danh.

Trước đó cô đã rất muốn gọi cho anh. Cô đã mơ màng viển vông đến một lần gặp gỡ thật lãng mạn – hai mươi năm xa cách rốt cuộc sẽ được kết thúc bằng cuộc gặp gỡ của hai người yêu nhau. Nhưng không phải dành cho cô. Pat tiếp tục sống. Câu chuyện kết thúc ở đó.

Cô và Candy chưa bao giờ nhắc đến ngày cưới của Candy. Nhưng từ khi cô và Pat dọn về Chicago, Candy đã đến nhà mới của họ hai lần. Cô ấy đem bánh mì và muối vì biết Pat sẽ rất thích, và tin tức của cuộc tìm kiếm “mới”. Cuộc tìm kiếm không còn hồ hởi như xưa. Các thám tử loay hoay với các dấu vân tay trên chiếc giày; các đường dây điện thoại được lập lại chỉ thỉnh thoảng mới nhận được một cú điện thoại, hầu hết là tin vịt. Barbara Kelliher đã thuyết phục được một số tình nguyện viên từ trường Immaculata để dựng lại một trung tâm TÌM BEN ngay tại nhà cô ấy nhưng kết quả chẳng ra sao. Hầu hết những bạn học cũ đều khiếp sợ lời nguyền kép đối với hai kỳ họp mặt này nên đều đã lảng đi hết. Thậm chí Wayne cũng chỉ gửi một ngân phiếu một ngàn đôla.

Tuy nhiên, họ đang làm một bức phác họa Ben lớn dần theo tuổi trên máy vi tính. Rồi sẽ phát hiện được thứ gì đó, Candy nói. Thứ gì đó. Beth biết chắc như thế, cũng y như cô biết khi bà Rosie đang lái xe, bà không bao giờ quên đưa tay sờ vào nút áo khi đi qua một đám tang trên đường. Beth biết sẽ chẳng có phát hiện nào, bây giờ và mãi mãi sau này cũng vậy. Nhưng dù sao thì cô cũng cảm ơn Candy.

Lần thứ hai Candy ghé đến thì hai người rất thoải mái với nhau. Họ ngồi trên hàng hiên, Beth uống cà phê pha rượu, Candy uống nước khoáng vì cô nghĩ mình có thể có thai. (“Chị buồn nôn lắm, lúc nào cũng thế,” cô thở dài. “Có lẽ chị bị loét bao tử rồi.”). Beth kể về Vincent. Vào khoảng tháng Chín, nhà trường báo rằng Vincent không làm bài tập về nhà. Thầy giáo tư vấn ở trường đang cân nhắc xem Vincent có mắc hội chứng thiếu tập trung không, dù Beth biết chắc Vincent không bị như thế: tối nào nó cũng miệt mài hàng giờ đọc báo và xem tivi, ghi lại các bàn thắng của các trận đấu thể thao trong những cuốn sổ thể thao được phân biệt bằng màu sắc khác nhau. Khi Candy đứng lên ra về, cô quay nghiêng lại nói với Beth: “Nếu em có muốn thổ lộ với chị về vấn đề gì....”

Với vẻ hối lỗi, Beth ngắt lời cô: “Tất cả chỉ là vì em ghét ở đây thôi...”

Nhưng Candy đã lắc đầu. “Chị cũng thấy chuyện này rồi. Nhưng ý chị là nếu em muốn nói cho chị biết vấn đề thật sự...”

Nhưng Beth sẽ không bao giờ tiết lộ. Không bao giờ với Ellen. Cũng không với Candy. Cô đã thề sẽ giữ sự phản bội cuối cùng đối với Ben, đối với Pat này, trong lòng cô, một mình.

Khi Pat bước ra ngồi cạnh Beth thì cô đang lim dim ngủ dưới ánh nắng. “Bố với nhà thiết kế Kip đang cãi nhau. Và họ đang rất vui. Mọi thứ sẽ ổn thôi, dù cái nhà hàng chết tiệt này có ngốn cả núi tiền đi chăng nữa.”

Anh ấy đang lo lắng. Beth hít một hơi thật sâu; anh ấy đang lo, thế nên anh ấy sẽ không sao.

- Vậy là tốt rồi, Paddy,” Beth nói. Và họ đứng lên lái xe về lại ngôi nhà mới của mình.



BOOK COMMENTS

  • 0.0/7 - 0 rating
    TO TOP
    SEARCH