MỤC LỤC
- 1. Gọng Kềm Lịch Sử
- 2. Thuở Ấu Thời
- 3. Những Tổ Chức Chính Trị Bí Mật
- 4. Đảng Đại Việt
- 5. Cách Mạng Tháng 8
- 6. Anh, Tàu, và Pháp
- 7. Khủng Bố
- 8. Trong Vòng Trốn Tránh
- 9. Giải Pháp Bảo Đại
- 10. Mùa Nghỉ Alpine
- 11. Lập Trường Ngoan Cố Của Pháp
- 12. Sự Lựa Chọn của Cựu Hoàng
- 13. Ông Diệm và Các Thành Phần Đối Lập
- 14. Đảo Chánh
- 15. Tình Hình Sau Đảo Chánh
- 16. Chánh Quyền Tướng Khánh
- 17. Sự Can Thiệp của Hoa Kỳ
- 18. Bác Sĩ Quát và Các Tướng Lãnh
- 19. Con Đường Dẫn Đến Hiến Pháp
- 20. Bước Thứ Hai
- 21. Đại Sứ tại Hoa Thịnh Đốn
- 22. Hiến Pháp Dân Chủ
- 23. Khung Cảnh Hậu Trường
- 24. Cuộc Bầu Cử 1967
- 25. Sự Chuyển Đổi của Thời Cuộc
- 26. Tết Mậu Thân
- 27. Cuộc Đàm Phán Bắt Đầu
- 28. Vụ Anna Chennault
- 29. Tổng Thống Mới, Chính Sách Mới
- 30. Trì Hoãn
- 31. Mất Tiên Cơ
- 32. Cuộc Độc Cử
- 33. Hai Màn Ngoạn Mục
- 34. Hiệp Định Ba Lê
- 35. Những Việc Cuối Cùng
- 36. Lời Hậu Luận
Chương 23
Họ không thể khiến Candy ngừng xin lỗi được.
Nhiều năm sau này, khi cô nghĩ về tuần lễ đầu tiên đó, Beth nhớ nhất là nỗi thất vọng hoàn toàn của Candy. Cô ấy đã nhiều lần tự trách mình, trách Bender, và thậm chí cả những cảnh sát tận tâm của Parkside nữa, thậm chí cả sau khi Beth năn nỉ cô đừng tự sỉ vả mình nữa hay thậm chí khi bà Rosie đặt tay lên vai Candy nói: “Như thế là không nên. Con đã làm hết sức mình rồi mà. Gia đình này nợ con suốt cuộc đời này đó.”
Chuyện bắt đầu khi ba người họ bước ra ngoài hiên nhà George Karras và đứng đó hấp háy mắt trong ánh nắng chiều muộn – sau khi Karras đã kể với họ và cảnh sát trưởng Bastokovitch xác nhận qua điện thoại rằng vợ ông ta, Cecilia, đã là bệnh nhân từ bốn năm nay của bệnh viện Silvercrest tại Elgin, một bệnh viện tâm thần tư nhân. Rằng ông George là bố của đứa con độc nhất của họ – Sam, con của Cecil từ cuộc hôn nhân trước đó của cô ta, người mà George đã nhận làm con nuôi hợp pháp ngay sau khi kết hôn với Cecil cách đó bảy năm.
Trong một chừng mực nào đó, Beth đã cố quên đi cái giây phút ông Karras xác nhận điều đó, cố không nhớ đến lúc buồn nôn khi trông thấy những tĩnh mạch trên trán Pat bắt đầu đập mạnh vì kích động và rồi cổ áo anh đầm đìa mồ hôi. “Con nuôi hợp pháp?” anh rít lên thật dữ dằn với cái nhìn giống như kiểu tôi-sẽ-đập-tan-bất-cứ-thứ-gì-ở-đây của Vincent. “Con nuôi hợp pháp à?”
Candy cố gắng thuyết phục: “Pat, đợi đã...”
Ông George vẫn nồng nhiệt nhưng không giấu được vẻ lo lắng nói tiếp: “Không, không, không sao, được rồi. Quý vị có thể kiểm tra. Tôi có giấy tờ hợp pháp trong két sắt mà. Có cả giấy khai sinh của nó nữa. Quý vị có thể kiểm tra. Chúng ta hãy làm cho rõ vụ này đi.”
Ngay lúc đó Jimmy xuất hiện trong phòng khách và anh ta cùng Candy đưa Pat đang đờ người đi ra ngoài, trong khi Bastokovitch mở sổ ghi chép ra rồi ngồi phịch xuống cái trường kỷ và thấp giọng hỏi liệu ông Karras có muốn một luật sư có mặt ở đó khi ông trả lời mấy câu hỏi của họ không. Dù đứng ở ngoài, Pat, Beth và Candy vẫn nghe ông ta thở dài rồi cất giọng lanh lảnh: “Quý vị phải xem hồ sơ giấy tờ mới được. Chỉ cần bấy nhiêu thôi. Nó là con trai tôi. Nó là con của vợ tôi. Quý vị nhầm rồi. Để tôi đi lấy cho quý vị xem.”
Đứng phía ngoài cửa, Candy thình lình quay sang Beth và Pat nói: “Làm ơn, làm ơn tha lỗi cho chị.” Đây là lần đầu tiên cô nói câu đó và thật ra sau này cô còn lặp đi lặp lại nhiều lần nữa khi vụ việc dần sáng tỏ, cái điều mà chẳng hiểu vì sao đã xảy ra và kéo dài trong bấy nhiêu năm ở nơi chỉ cách hàng hiên nhà Cappadora có hai khu phố.
- Gì chứ?” Beth kêu lên. “Tha lỗi cho chị? Về chuyện gì mới được chứ?”
- Làm ơn, làm ơn... Không, đừng tha thứ cho chị. Đây là thất bại tệ hại nhất trong lịch sử. Thằng bé có mặt ở đây lâu rồi. Chị không đáng được tha thứ.”
Thậm chí Pat, lúc đó mặt tái xanh tái tử, cũng phải ngước lên nói: “Candy, đừng nói thế. Chị đâu thể nào biết được...”
Nhưng Candy chẳng chịu ngừng lại. Lần đầu tiên kể từ ngày Beth biết cô ấy, một Candy luôn điềm tĩnh của những ngày xa xưa bắt đầu tự chửi rủa, nhiếc móc mình ngày một nhiều hơn khi sự thật được phơi bày.
Chính Jimmy đã kể cho Beth nghe Candy đã dập mạnh ống nghe trong văn phòng mình rồi giật đứt dây mành cửa sổ khi nghe nói rằng Cecil đã hoàn toàn cộng tác với cảnh sát trong một cuộc phỏng vấn tại nhà bố mẹ cô ta chỉ vài tháng sau vụ bắt cóc, thậm chí còn mở hé cửa phòng ngủ để họ có thể nhìn thấy đứa con trai đang ngủ của cô ta mà Cecil tả là mới bốn tuổi, không lớn hơn Ben là bao. Candy đã nói với Jimmy: “Chuyện này sẽ làm tôi thức dậy và thét lên vào mỗi sáng – cho đến hết đời tôi.” Và sau khi Candy biết có một loạt những dấu vân tay rất rõ của Cecil – đã được lấy trong một vụ bắt rất nhiều người biểu tình chống vũ khí hạt nhân ở Champaign-Urbana cách đó mấy năm – trong hồ sơ của FBI thì cô đã nhảy ba bậc một lên cầu thang hét toáng vào điện thoại với Bender rằng cô không cần biết thằng chó đẻ phá thối nào hiện giờ đang sống ở Budapest, và rằng Bender phải tìm cho bằng được gã ấy vì gia đình Cappadora sắp kiện chính phủ để đòi hàng bao nhiêu triệu; chính phủ sẽ phải bồi thường bạc triệu vì một gã kỹ thuật viên chó chết nào đó của FBI đã được cho cả những dấu vân tay ở đế chiếc giày tennis thứ hai của Ben, những dấu vân tay, có lẽ cũng rõ như bộ vân tay giả họ đưa cho học viên nghiên cứu ở nhà trường, mà vẫn bỏ qua cho được. Candy hét lên: “Cả mấy anh nữa, mấy anh cũng có một bộ y hệt như vậy! Cecil Lockhart đã làm được mọi chuyện chỉ thiếu cái việc gọi các anh bằng cái loa phóng thanh tay vào đêm họp mặt lần thứ hai nữa thôi – “Tôi vẫn có mặt ở đây này! Tôi đã làm chuyện đó đó!” Chuyện này xảy ra cách đây đã năm năm rồi!... Ồ, đứa trẻ vẫn không sao. Ờ, có thể là nó không sao. Chúng ta còn chưa biết hết mọi sự mà... Thanh minh như thế nghe được chứ, Bob? Cây lành cho quả ngon à? Tôi mà biết thằng nhóc này bị đối xử tàn tệ, nếu người ta đụng đến một sợi tóc nó thì chính tôi sẽ xử anh đó Bob. Tôi nói là tôi sẽ làm đấy.”
Beth nghe kể mà chết khiếp, sau đó cô đánh bạo nói: “Chị đừng tự dằn vặt mình như thế nữa, chị nghiêm khắc với bản thân quá.”
Candy ngắt lời: “Vậy sao, Beth? Còn chuyện chị đã đặt các trạm liên hệ với Minneapolis thì sao? Cô ta đi tới đi lui cả năm mươi lần ngay trước mũi mình.” Cô ngừng lại, rồi xin lỗi vì thái độ mỉa mai đó.
Nhưng thậm chí rất lâu sau đó, khi toàn bộ câu chuyện dần hé lộ: chín năm hết lỡ làng này đến bất hạnh khác mà chỉ Cecile Lockhart mới cung cấp được những thông tin quan trọng, Beth cũng không thể chấp nhận cái mặc cảm tội lỗi quá nặng của Candy, cô ấy cương quyết tránh né những lời cảm ơn, an ủi của họ. “Chính em đã tìm được nó,” cô lặp đi lặp lại với Beth hàng chục lần như thế. “Đừng cảm ơn chị. Chị không xứng đáng đâu.” Giới truyền thông và hầu như tất cả các nguồn chính thức khác có liên quan đến vụ này đều nhất trí tán dương cô (lúc này cô khá thanh lịch và quyến rũ, nếu không muốn nói là quá thanh lịch và quyến rũ, hơn trước đây chín năm nhiều) – và điều này chỉ làm Candy thêm thất vọng. Một đêm mùa thu năm sau, cô kể với Beth rằng giây phút dễ tha thứ duy nhất trong suốt mùa xuân ấy là vào cái tối “bắt bớ” – mà tất nhiên hóa ra lại không phải thế – giây phút khi cô và Jimmy được nhìn thấy Pat gặp Ben.
Bản thân Beth cũng có thể nhớ lại toàn bộ khoảnh khắc đó, tua nó lại như một đoạn phim chiếu nhanh một đóa hồng đang nở: Tất cả họ đang đứng bên ngoài ngôi nhà giám hộ khẩn cấp ở Wheaton, thấy hai đứa bé đang leo trên cửa sổ lầu hai cố nhoài người nhìn cho rõ họ đang đứng dưới mái hiên nhà; ông George, mắt mũi đỏ hoe nhưng khăn tay vẫn gấp phẳng phiu nơi túi áo ngoài chiếc áo thể thao, đến cùng Bastokovich trong chiếc xe của cảnh sát trưởng. Ông đi vào nhà, băng qua mấy người nhà Cappadora với một cử chỉ vừa như nhún vai, vừa như biện hộ: hai cùi chỏ chống vào sườn, hai bàn tay xòe ngửa ra. Sau đó mọi người lại tiếp tục chờ đợi, Vincent đưa mũi giày di di lớp đất mềm bên dưới một luống hoa, Kerry ngồi trên sân, tay giữ sợi dây cột con Beowulf đang uốn éo, rên rỉ. Beth không hiểu vì sao cô đã nhượng bộ để Kerry đem theo con chó. Trong những phút giây chờ đợi căng thẳng không chịu đựng được đó, rèm cửa được vén lên rồi lại thả xuống; cuối cùng ông George cũng xuất hiện, vừa đi vừa hỉ mũi, rồi đến bà giám hộ, tóc bạc phơ và trông nhàu nhĩ thảm hại dù bà đang mặc bộ đồ màu cánh sen, mắt chớp chớp vì ánh chiều tà bên ngoài. Bà bước ra bậc thềm rồi tránh sang một bên, tay giữ cho cánh cửa lưới mở ra sau lưng.
Và tiếp đó là Ben.
Đến tận bây giờ, mỗi khi nhớ lại giây phút ấy, Beth vẫn nhớ vẻ căng thẳng và tập trung tối đa của Pat; cô nghĩ anh sẽ nhảy lên bậc cấp, bỏ cô đứng đó chết lặng, hai tay buông thõng bên mình. Thay vào đó anh đưa tay vuốt tóc rồi chầm chậm, cẩn thận bước lên giống như một nhà sinh vật học tiến đến chỗ một con linh dương mới sinh ở ngoài đồng và chìa tay ra như thể muốn bắt tay. Nhưng khi thằng bé chỉ đứng đó nhìn anh chằm chằm – còn Beth nín thở – thì Pat đưa ngón tay cái lên vuốt ve nhè nhẹ gương mặt thằng bé từ chân tóc đến cằm và hỏi: “Con khỏe không?”
- Con khỏe ạ,” nó máy móc trả lời và rồi “Ba...?” Và khi cả George lẫn Pat đều lên tiếng đáp lại thì Beth bật khóc nức nở, sau đó cô hít một hơi thật sâu. Sau lưng cô là tiếng ho sù sụ lẫn tiếng chân bước cùng tiếng nói chuyện ồn ào của các cảnh sát của tiểu bang và thành phố Parkside không biết từ đâu tới. Đến lúc đó thì cô cùng Kerry và Beowulf nhảy lên bậc tam cấp, Beth hít lấy hít để mùi của thằng bé cũng hệt như con chó. Cô tiến đến sát người Ben khiến nó gần ngã vì nó đang đứng đờ người ra, làm cuối cùng nó phải lùi lại đưa tay ra nắm lấy ông George.
- Tôi hiểu,” lúc đó bà giám hộ ân cần thốt lên hai từ ấy. “Nhưng cháu nó bị choáng ấy mà.”
Lúc ấy Pat đã bảo Ben đi ngủ. Còn ông George – vẫn gọi Ben là “Spiro”, mà mãi về sau Beth mới biết đó là cái tên Hy Lạp ông đặt cho Sam – ôm lấy nó và đưa nó vào trong.
Và đó cũng là lúc Candy quay lại nói: “Chị thành thật xin lỗi.”
Nhưng Pat đã quay sang cô, gương mặt anh đỏ bừng, bóng láng – gương mặt Beth đã khao khát cả trăm năm trước – và nói: “Sao lại xin lỗi, hả Candy? Đây là ngày sung sướng nhất đời em mà.”
Và để củng cố thêm mối quan hệ giữa họ, Pat – người mà công việc ở nhà hàng Đám Cưới là trên hết – đã bỏ làm để đến gặp Sam liên tiếp mấy tuần liền. Những ngày sau đó, giữa những buổi thăm viếng dài một tiếng, có sự giám sát, và dần quen với cách gọi “Sam”, Beth và Pat uống không biết bao nhiêu là cà phê và đọc không biết bao nhiêu thông tin trong các bản báo cáo Candy đem đến cho họ hằng ngày. Đó là các bản báo cáo những lần cảnh sát phỏng vấn Cecil ở Silvercrest, chúng hầu như chẳng xứng với cái tên của cô ta. Michele Perrault, người luật sư nhỏ con được ông George thuê, đã suýt gặp rắc rối khi thẩm phán Sakura hỏi có phải bên bị cáo chọn cách đứng im lặng không thì Perrault đã gay gắt đáp lại: “Thưa Ngài, đó là cách duy nhất bà ấy có thể đứng.”
Nhưng sự thật khốn khổ là thế. Bác sĩ đã chẩn đoán đó là chứng căng trương lực. Candy nói cách đây đã lâu, khi mới vào Silvercrest, Cecil đã biểu lộ tính sôi nổi – thỉnh thoảng cô ta nói với giọng của một diễn viên đã được tập luyện thành thục khiến mọi người đều kinh ngạc, nhưng điều đặc biệt là những gì cô ta nói ra đều vô nghĩa. Giờ thì cô ta ngồi im như thóc, không gây ra tiếng động nào thậm chí khi ngáp hay gãi gãi chân vào ghế. Tại Silvercrest, trong phòng của Cecil, trong phòng giải trí, trong văn phòng bác sĩ giám hộ của cô ta, Candy rồi sau đó là Robert Bender, Calvin Taylor, và nhiều người khác nữa, đều đã mất rất nhiều thì giờ với Cecil.
Họ đưa cho Cecil xem ảnh, những bức ảnh mà ông George, để tỏ thiện chí, đã rửa thêm ra cho gia đình Cappadora – những bức ảnh chụp Cecil ngồi trên hiên nhà mẹ cô ta với Ben cưỡi trên chiếc xe đạp mới tinh màu đỏ có hai bánh phụ, những bức ảnh ông George cõng Ben trên vai đang trên đường mòn đi lên núi. Bức ảnh Ben đang ngồi trong lòng ông già Noel, tóc vẫn còn nhuộm màu nâu giống như Vincent, chỉ khoảng chưa đầy sáu tháng sau.... Sao cô ta lại dám làm như thế chứ? Beth cứ suy nghĩ mãi. Dĩ nhiên là rốt cuộc thì cô ta còn có thể làm gì khác được nữa chứ – liệu Cecil ngu ngốc hay chỉ đơn giản là điên rồ? Bức ảnh thu hút sự chú ý của Beth nhất ắt đã được chụp vào mùa thu sau khi cảnh sát đã thẩm vấn Cecil, sau khi cô ta chuyển từ Minneapolis về lại Chicago. Candy nói mẹ Cecil đã xác nhận vụ chuyển nhà này, và Cecil đã xuất hiện với một đứa cháu ngoại mà bà Lockhart chưa từng gặp mặt. Beth hỏi dồn Candy: Tại sao bà Lockhart lại tin Cecil chứ? Bà ta không liên hệ được chuyện đột ngột có đứa cháu ngoại với việc mất tích được làm rùm beng lên của Ben à?
Candy đáp: “Nếu có nghi đi chăng nữa thì bà ta cũng chẳng dại gì mà nói ra.”
Trong khi ấy, sau khi đưa ảnh ra mà không thu được kết quả gì, cảnh sát, với sự hỗ trợ của bác sĩ tâm thần của Cecil, đã cố dùng những tác nhân kích thích khác như nhạc hippie từ thời còn học phổ thông – ban nhạc rock Cream, nghệ sĩ ghi-ta Jimi Hendrix và ca sĩ kiêm nghệ sĩ ghi-ta Donovan để cố gợi ra những câu trả lời. Họ đem kẹo bạc hà đến cho cô ta – thứ kẹo mà các y tá cho biết Cecil rất thích – và ngồi nhìn Cecil chộp lấy rồi nhai ngấu nghiến, cái động tác duy nhất cô ta tự nguyện làm suốt bấy lâu nay. Họ cũng đem một máy video để chiếu cho Cecil xem những trích đoạn dài cô ta đóng trong vở kịch Major Barbara của chương trình Hallmark Hall of Fame. Họ cũng đem đến một áp-phích lớn có hình Cecil, với mái tóc bạch kim được chải hất ngược ra sau thật đẹp, trong chương trình chỉ có một phụ nữ Jane Addams của Hull House, cuộc trình diễn đã giúp Cecil đoạt giải thưởng Thành tựu Nghệ thuật Grace Dory ngay mùa hè trước buổi họp lớp. Họ đem đến những trang nhất với những dòng tựa cũ (“Người Mẹ Nguyền Rủa Tên Bắt Cóc: Đồ Khốn Nhẫn Tâm!”).
Và đúng như lời bác sĩ đã tiên đoán, họ đã thất bại đau đớn. Không moi được gì cả. Candy cho Beth biết Cecil đờ đẫn hơn bao giờ hết và không hé răng. Cô ta ăn hết chỗ kẹo bạc hà và khi Mary, cô y tá có gương mặt đẹp như thiên thần, thúc vào cùi chỏ thì cô ta đứng lên. Những gì Cecil biết, nếu cô ta còn nhận thức được những điều này, sẽ mãi mãi nằm lại trong đầu cô ta.
George đã cố gắng hết sức để giúp làm sáng tỏ mọi chuyện. Ông tự động đến nhà Cappadora mấy lần để rồi sau đó ngồi nơi bàn nhà bếp mà tức giận, mắt ông hết nhìn bức ảnh này đến bức ảnh khác của Ben khi còn bé được treo trên tường. Ông đem đến những sổ khám chữa răng, các biểu đồ phát triển của Sam do bác sĩ nhi cung cấp và giấy chứng thương khi nó bị gãy cổ tay trong một trận đấu bóng đá năm lên chín tuổi. Beth mời ông uống cà phê với khăn lau tay bằng vải mà cô phải lên tận trên lầu tìm trong tủ bát đĩa, đem thêm kem trong bình và lăng xăng làm những điều cô chưa từng làm để giúp ông bình tĩnh lại.
Cuối cùng, một đêm nọ, khi Ben vẫn còn đang trong giai đoạn chăm sóc chuyển tiếp, ông George đã buột miệng: “Có lẽ quý vị nghĩ tôi phải cảm thấy mình tội lỗi hơn nữa, nhỉ. Mà thật là như vậy đó. Tôi thấy mình có tội. Nhưng làm sao tôi tự trách mình được? Quý vị chắc không tin rằng tôi biết rất ít về chuyện này đâu nhỉ. Tôi chỉ biết đó là con trai tôi – xin Chúa tha tội cho con – nó cũng là con tôi nữa, Beth và Pat ạ, ý tôi là hãy nhìn vấn đề này từ quan điểm của nó. Khi mẹ nó phải vào bệnh viện tâm thần thì nó hãy còn rất bé. Cầu Chúa phù hộ cho cô ấy. Cecilia tội nghiệp, cô ấy là người đẹp nhất... Chị biết không, Beth, khi tôi gặp cô ấy, tôi nghĩ cô ấy chỉ mới hơn hai mươi lăm tuổi mà lúc ấy thật ra đã gần ba mươi sáu rồi. Cô ấy thật dễ thương và mong manh, như một đóa hoa vậy.” Ông vỗ nhẹ vào ngực. “Tụi tôi đang có chiến dịch khuyến mãi; ngay tại sân bay người ta cũng có thể mua vé đến rạp hát đó. Cô ấy vừa từ Minneapolis trở lại và đang đóng trong vở kịch My Fair Lady. Còn tôi thì ở đây, cái thằng dân quèn xây sân vườn. Không tin được rằng cô ấy sẽ để mắt đến mình... người phụ nữ ấy, cô gái ấy, sẽ để mắt đến mình.... Tôi không thể tin được.”
Ông nhấp một ngụm cà phê, ngón tay út của ông mềm mại duỗi ra. “Và sau đó thì quý vị biết cả rồi đấy, có thằng bé nữa. Nó – chà, Beth này, nó giống như... thậm chí bây giờ nó vẫn vậy. Thật vui vẻ và gan dạ. Thông minh và mạnh mẽ. Tôi cũng yêu nó nhiều như yêu Cecilia vậy. Chính Cecilia là người muốn kết hôn ngay, gần như là cô ấy sắp... ôi, lạy Chúa. Trước khi vào ở hẳn trong bệnh viện, trong cơn bốc đồng, cô ấy đưa nó đi cắt tóc ngắn thật ngắn. Và thế là tóc thật của nó lộ ra, hơi đỏ. Nâu đỏ. Tôi có để ý thế. Tôi nghĩ, ôi Chúa ơi, con nít thay đổi nhanh thật. Tôi không hề biết cha nó. Tôi nghĩ chắc ông ta là dân Ai-len. Tôi xây nhà để xe. Pat ạ, tôi chỉ biết xây những sân vườn bằng gỗ và nhà để xe. Nó là con tôi. Tôi nhận nuôi nó nhưng xem nó như con ruột vậy. Nhưng thậm chí trước đó nữa tôi cũng đã coi nó như con rồi.”
George đưa tay lên vuốt mái tóc tuyệt đẹp của ông ta – Hình như mới vài tuần mà nó bạc thêm chăng? Beth tự hỏi. Đây chỉ là chuyện hoang đường hay đã xảy ra thật? George nói: “Dĩ nhiên là tôi đã tính rằng chúng tôi sẽ kiếm được nhiều tiền hơn nữa; nhưng bệnh cô ấy trở nặng ngày càng nhanh và rồi tôi phát hiện ra rằng cô ấy không trẻ đến thế. Ôi lạy Chúa, tôi bị sốc nặng. Lần nào tôi đến đó họ cũng đều phải trói cô ấy lại. Cô ấy cắn cấu lung tung.... Sau đó cô ấy không còn nhận ra tôi nữa. Cũng không nhận ra mẹ cô ấy hay thằng nhóc nữa. Nhưng tôi còn có Sam. Có Spiro của tôi. Tôi còn thằng bé ngôi sao của tôi. Đúng không?”
Beth thấy cổ mình ướt nhẹp; cổ áo sơ mi của cô ướt đẫm nước mắt. Mũi dãi cô chảy lòng thòng; thậm chí cô cũng không biết mình đang khóc. Cô nói: “George à, anh không cần phải kể cho chúng tôi nghe đâu.”
Dù họ đau đớn vì thương cảm nhưng Pat và Beth nhất trí giữ vững lập trường. Dù ông George có là gì đối với Sam đi nữa thì ông cũng sẽ không được quyền là người cha thứ hai của nó. Tuy nhiên họ sẽ không hất ông ra vì ông là cửa sổ duy nhất để họ nhìn vào cái kén nơi Ben biến thành Sam.
Những lời cáo buộc đã được đưa ra. Tiểu bang Illinois buộc Cecilia Lockhart Karras tội bắt cóc ở mức nghiêm trọng, tùy theo những gì họ biết về các điều kiện Ben đã sống trong chín năm qua, để tăng thêm mọi kiểu tội trạng ngoại trừ vụ bắt cóc Patty Hearst: giam cầm trái phép, ngược đãi trẻ em và gây nguy hiểm, cản trở giám hộ, giấu một đứa trẻ, vi phạm nhân quyền. Candy mỉm cười khi cô đọc hồ sơ tố tụng. “Họ đã quên tội giả mạo và cố tình chiếm đoạt....”
Nhưng Candy biết, cũng như Beth và mọi người biết, ngay từ những phút đầu tiên trong phòng khách của ông George, rằng toàn bộ quá trình pháp lý này phần lớn sẽ chỉ là kịch cọt, một màn kịch câm được tính toán kỹ lưỡng với một mục đích duy nhất là để khép lại, giống như dùng dây gai cột các góc của những tờ báo lại với nhau rồi đem ra bỏ ngoài lề đường. Candy tiên đoán rằng sẽ không còn ai biết thêm gì nữa, giống như thiên hạ sẽ được báo để đến chứng kiến việc cột cái nút ấy, siết chặt nó lại rồi cắt bỏ phần dây thừa.
Cecil sẽ được dẫn xuống mấy bậc thềm của tòa án tại phố Hai mươi Bảy cũng y như lúc cô ta bước lên với ánh đèn đang chầm chậm quét qua gương mặt vô cảm của cô với những tiếng nói rầm rì cô không nghe thấy. Cô ta sẽ về lại Silvercrest như một phụ nữ tự do, giống như lúc được đưa bằng xe của bệnh viện đến nhà tù của quận Cook. Cô ta sẽ về lại căn phòng mà không ai biết chắc rằng cô có nhận ra nó hay không, sẽ được đưa về lại bằng những bàn tay thô nhám hay mềm mại mà không ai dám chắc rằng cô có cảm nhận được chúng hay không; sẽ ngồi chăm chú nhìn vào màn ảnh ti vi trước mặt cô nếu nó được bật lên; sẽ ngồi hai tay đan vào nhau cho đến khi có ai đó đến đỡ cho cô đứng dậy; sẽ tự dây bẩn ra người mà không hề thấy khó chịu. Tống Cecil vào tù là một việc thừa; không ai muốn thế cả, ít nhất là Beth và thậm chí cả Pat nữa.