 |
 |
Hồ Biểu Chánh (1984-1958) |
Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên. Ông sinh năm 1884 (trong khai sanh ghi ngày 01/10/1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công. Khi viết văn, ông lấy tên tự ghép với họ là Hồ Biểu Chánh, trở thành một bút danh bất hủ, được nhiều người biết đến và quí mến hơn tên tộc Hồ Văn Trung của ông.
Ông xuất thân làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ, từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi, vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Cuối năm 1946, ông từ giã chánh trường, thật sự sống cuộc đời hưu nhàn, giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương.
Ông sáng tác văn học rất nhiều và để lại hơn 100 tác phẩm gồm tiểu thuyết và các thể loại khác, như: nghiên cứu, phê bình văn học, sáng tác tuồng hát cùng các bản dịch văn học cổ điển Trung Quốc như Tình sử, Kim cổ kỳ quan...
Các nhà phê bình, không ai phủ nhận công sức đóng góp văn học của nhà văn Hồ Biểu Chánh.
Tác phẩm của ông gồm nhiều thể loại: Dịch thuật, thơ, tuỳ bút phê bình, hồi ký, tuồng hát, đoản thiên, truyện vắn, biên khảo, tiểu thuyết...
Hồ Biểu Chánh sở trường về viết văn xuôi tự sự. Ðề tài phần lớn là cuộc sống Nam bộ từ nông thôn đến thành thị những năm đầu thế kỷ XX với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Cách diễn đạt nôm na, bình dị. Ông đã có những đóng góp to lớn vào sự hình thành thể lọai tiểu thuyết trên chặng đường phôi thai. Ông để lại một khối lượng sáng tác không nhỏ: 64* tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập ký, 28 tập khảo cứu-phê bình. Ngòai ra, còn có các bài diễn thuyết và 2 tác phẩm dịch.
Ông mất ngày 04/09/1958 tại Phú Nhuận, Gia Ðịnh, thọ 74 tuổi.
nguồn: hobieuchanh.com
|
TÁC PHẨM: |
Ai làm được (Cà Máu, 1912)
Cay đắng mùi đời (Sài Gòn, 1923)
Chúa tàu Kim Qui (Sài Gòn, 1923)
Một chữ tình (Sài Gòn, 1923)
Tình mộng (Sài Gòn, 1923)
Nam cực tinh huy (Sài Gòn, 1924)
Nhơn tình ấm lạnh (Sài Gòn, 1925)
Tiền bạc, bạc tiền (Sài Gòn, 1925)
Ngọn cỏ gió đùa (Sài Gòn, 1926)
Thầy Thông ngôn (Sài Gòn, 1926)
Chút phận linh đinh (Càn Long, 1928)
Kẻ làm người chịu (Càn Long, 1928)
Cha con nghĩa nặng (Càn Long, 1929)
Khóc thầm (Càn Long, 1929)
Vì nghĩa vì tình (Càn Long, 1929)
Con nhà nghèo (Càn Long, 1930)
Nặng gạnh cang thường (Càn Long, 1930)
Con nhà giàu (Càn Long, 1931)
Cười gượng (Sài Gòn, 1935)
Dây oan (Sài Gòn, 1935)
Một đời tài sắc (Sài Gòn, 1935)
Ở theo thời (Sài Gòn, 1935)
Ông Cử (Sài Gòn, 1935)
Thiệt giả, giả thiệt< (Sài Gòn, 1935)
Đoá hoa tàn (Vĩnh Hội, 1936)
Nợ đời (Vĩnh Hội, 1936)
Lạc đường ( Vĩnh Hội, 1937)
Tân Phong nữ sĩ (Vĩnh Hội, 1937)
Từ hôn (Vĩnh Hội, 1937)
Bỏ chồng (Vĩnh Hội, 1938)
Bỏ vợ (Vĩnh Hội 1938)
Lời thề trước miễu (Vĩnh Hội, 1938)
Người thất chí (Vĩnh Hội, 1938)
Tại tôi (Vĩnh Hội, 1938)
Hai khối tình (Vĩnh Hội, 1939)
Tìm đường (Vĩnh Hội, 1939)
Đoạn tình (Vĩnh Hội, 1940)
Ái tình miếu (Vĩnh Hội, 1941)
Cư Kính (Vĩnh Hội, 1941)
Ý và tình (Vĩnh Hội, 1938, 1942)
Mẹ ghẻ con ghẻ (Vĩnh Hội, 1943)
Bức thơ hối hận (Gò Công, 1953)
Trọn nghĩa vẹn tình (Gò Công, 1953)
Đỗ Nương Nương báo oán (Sài Gòn, 1954)
Nặng bầu ân oán (Gò Công, 1954)
Đại nghĩa diệt thân (Sài Gòn, 1955)
Hai chồng (Sài Gòn, 1955)
Hai vợ (Sài Gòn, 1955)
Lá rụng hoa rơi (Sài Gòn, 1955)
Tơ hồng vương vấn (1955)
Một duyên hai nợ(Sài Gòn, 1956)
Những điều nghe thấy (Sài Gòn, 1956)
Ông Cả Bình Lạc (Sài Gòn, 1956)
Trả nợ cho cha (Sài Gòn, 1956)
Chị Đào, Chị Lý (Phú Nhuận, 1957)
Hạnh phúc lối nào (Phú Nhuận, 1957)
Đón gió mới, nhắc chuyện xưa (Phú Nhuận, 1957)
Nợ tình (Phú Nhuận, 1957)
Nợ trái oan (Phú Nhuận, 1957)
Sống thác với tình (Phú Nhuận, 1957)
Tắt lửa lòng (Phú Nhuận, 1957)
Trong đám cỏ hoang (Phú Nhuận, 1957)
Vợ già chồng trẻ (Phú Nhuận, 1957)
Lẫy lừng hào khí (Phú Nhuận, 1958)
Hai Thà cưới vợ (?)
Lòng dạ đàn bà (?)
Một đoá hoa rừng (?)
Thầy Chung trúng số (?)
|
|
|  |
|