Tên thật Cù Huy Cận, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919, quê
làng Ân Phú huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; cha là một nhà nho.
Ðậu tú tài Tây ở Huế, sau đó theo học ở trường
Cao Ðẳng Canh Nông, ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu.
Năm 1943 ông đậu kỹ sư canh nông.
Từ năm 1945 đến nay là Thứ trưởng rồi hàm Bộ trưởng,
phụ trách các công tác văn hóa và văn nghệ.
Làm thơ từ 1934, đăng thơ từ năm 1936. Tác phẩm tiêu
biểu gồm có các tập thơ Lửa Thiêng (1940), Kinh Cầu
Tự (1942), Vũ Trụ Ca (chưa in, 1942-43), Trời Mỗi Ngày
Lại Sáng (1958), Ðất Nở Hoa (1960), Bài Thơ Cuộc
Ðời (1963), Những Năm Sáu Mươi (1968), Cô Gái Mèo
(1972), Chiến Trường Gần Chiến Trường Xa (1973), Ngày
Hằng Sống Ngày Hằng Thơ (1975), Ngôi Nhà Giữa Nắng
(1978).
Là một trong
những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới, thơ ông
có một bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội
cũng như triết lý. Thơ Huy Cận mang một nỗi buồn sâu lắng,
miên man, ảo não
và thảm đạm; nỗi buồn của "đêm mưa",
của "người lữ thứ", nỗi buồn của "quán chật
đèo cao", của "trời rộng sông dài".
|